Bí ẩn “tài sản” thiêng liêng của người... xuất gia
Nhiều Phật tử nhìn thấy các nhà sư
khoác áo cà sa, tay bưng bình bát nhưng không phải ai cũng hiểu được “bí
ẩn” về hai tài sản thiêng liêng này của người... xuất gia.
Áo cà sa tượng trưng cho Đạo Pháp
Chiếc áo cà sa (pháp phục - PV) được xuất hiện sau
khi Đức Phật thành đạo, Tăng đoàn bắt đầu được thành lập và theo như
kinh sách tiếng Hán, áo cà sa còn gọi là Cát triệt y hay Điền tướng y,
là những mảnh vải vụn nhặt được ở bãi tha ma, tượng trưng cho những gì
tầm thường nhất và cũng để nhắc nhở người xuất gia cần có một đời sống
khiêm tốn và đơn sơ nhất.
Các sư chư Tăng đoàn Hệ phái PG Khất Sĩ cho đến nay vẫn mặc bộ cà sa do Đức Phật chế ra. |
Người xuất gia khoác lên người áo cà sa để giúp họ tự giữ giới, nhắc
nhở họ không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp, không sân si, bám níu.
Chiếc áo ấy đem đến sự an lạc cho họ, giúp họ phát lộ lòng từ bi, làm
gia tăng trong tâm thức họ sự can đảm, tinh tấn, sức mạnh và trí tuệ.
Mặt khác áo cà sa còn gây nhiều sự chú ý của giới
nghệ thuật, đã đi vào văn học dân gian, in đậm vào văn hoá và tư tưởng
con người. Người xuất gia mặc áo này trông trang nghiêm và dễ mến, kể cả
nếp nhăn hoặc nếp rũ trên cà sa.
“Những ai đã Giác Ngộ đều tôn kính chiếc áo cà-sa,
tin tưởng nơi chiếc áo đó. Họ xem đó là chiếc áo của giải thoát, một
cánh đồng của phúc hạnh, một mảnh áo vô tướng, mảnh áo của Như Lai, mảnh
áo của sự Giác Ngộ hoàn toàn, hoàn hảo và không có gì so sánh được” -
Đạo Nguyện (đại thiền sư người Nhật) nhấn mạnh.
Trong kinh Pháp Hoa, áo cà sa còn là biểu tượng của
hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục và trong Phật giáo những biểu tượng
ấy có liên hệ mật thiết với tinh thần bình đẳng, tin chắc rằng mọi
chúng sinh đều có Phật tính và khả năng thành Phật. Đó là tâm từ, là
hạnh thành Phật.
Ngày nay, mặc dù tùy theo truyền thống của từng học
phái, địa phương, phong tục, khí hậu… mà chiếc áo cà sa cũng biến dạng
đi, từ cách may cho đền màu sắc nhưng những biến đổi đó vẫn luôn luôn
giữ được truyền thống và phong cách hàng ngàn năm của Phật giáo. Tất cả
đều không đi ra ngoài... Đạo Pháp.
Bình bát là bảo vật truyền thừa của chư Phật
Trong kinh Phật bổn hạnh có nói: Khi đức Phật còn
tại thế, có hai thương gia là Đế Ly Phú Bà và Bạt Ly Ca đều ở phía bắc
Ấn Độ. Hai vị này, một hôm đem sữa cúng dường đức Phật nhưng đức Phật
không có đồ đựng.
Bình bát - bảo vật truyền thừa của chư Phật |
Lúc bấy giờ có bốn vị thiên vương đem bốn cái bát bằng vàng đến dâng
cúng đức Phật để đựng sữa, ngài không nhận. Bốn vị thiên vương ấy lại
trở về đem bốn cái bát khác bằng những thứ quý: ngọc, ngà, xa cừ... để
dâng cúng đức Phật, ngài cũng không nhận. Sau cùng bốn vị ấy đem dâng
cúng bốn cái bình bát khác bằng đá, đức Phật rất hoan hỷ.
Theo tiếng Phạn thì bình bát gọi là Bát Đa La
(người Trung Quốc dịch là Ứng lượng khí) nghĩa là đồ dùng để chứa đựng
các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người.
Bình bát chỉ được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất
sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi thấm nước, chứ không
được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý... Nếu dùng bằng
kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của bậc xuất gia. Và thông thường
túi đựng bình bát bằng vải, cùng màu với màu y.
Ở các nước Tiểu thừa Phật giáo, chư Tăng thường đi
khất thực nên thường dùng bình bát. Các nước theo Đại thừa Phật giáo thì
không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ,
có nơi còn ba tháng kiết đông nữa.
Đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm
cúng dường trai tăng (thực phẩm và những vật dụng cần thiết) thì cũng
dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai. Sau khi các vị đã đắc
giới, chư giới sư trao truyền bình bát và bắt đầu trì bình (ôm bát đi
khất thực) từ đó.
Mỗi lần đi khất thực, tay nâng bình bát đang còn
trống không, đức Phật dạy đệ tử của ngài không phiền muộn, không lo lắng
mà phải an tịnh và nhận đồ cúng dường với tâm bình đẳng.
“Pháp phục và bình bát là tài sản thiêng liêng, quý
báu của người hành Đạo. Vì nó là phương tiện giúp cho Tỳ Kheo an ổn
trong sinh hoạt hằng ngày và phòng hộ thân tránh tham đắm dục lạc. Khi
còn tại thế Đức Phật vẫn luôn nhắc nhở, khuyến khích các Tỳ Kheo hãy
thường giữ bên mình 3 y và 1 bình bát. Đó là Pháp phục truyền thống của
ba đời Chư Phật” - Giáo lý của Đức Phật viết.
Bùi Hiền
(Bài viết có sử dụng tài liệu từ Thuvienhoasen, Đại tạng kinh Việt Nam, trang nhà Quảng Đức )
(Bài viết có sử dụng tài liệu từ Thuvienhoasen, Đại tạng kinh Việt Nam, trang nhà Quảng Đức )
Không có nhận xét nào