Âm hưởng Đại lễ Vu lan trong văn tế thập loại chúng sinh
Nguyên lý Duyên khởi của nhà Phật là nền tảng, là cội nguồn của đạo lý
hiện thực. Tri ân và biết ân là đức hạnh sâu dày để an trú trong thế giới an
lạc hạnh phúc. Phật dạy "Ai thấy
Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp sẽ chứng ngộ Niết bàn".
Câu chuyện
trong kinh điển
Đối với Phật giáo Việt Nam, ngày lễ Vu Lan là ngày có ý nghĩa rất lớn vì
đâylà ngày Tôn giả Mục Kiền Liên, một trong mười đệ tử lớn bên cạnh Đức Phật và
là bậc thần thông đệ nhất. Sau khi Ngài chứng quả A la hán, Mục Kiền Liên dùng
huệ nhãn tìm kiếm mẫu thân khắp 3 cõi, thấy mẹ bị đoạ vào kiếp ngạ quỷ (quỷ
đói) chịu thống khổ nơi địa ngục A tỳ. Lòng Ngài quá xót xa đau đớn bèn cậy
phép thần thông đến dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề, mẹ của Ngài vì quá đói khát
nên tham lam vội vàng giật lấy bát cơm bốc ăn, cơm chưa vào miệng đã biến thành
lửa bốc cháy... Nhìn cảnh tượng đó, Mục Kiền Liên đau đớn vô cùng, liền quay
trở về bạch với Phật cầu xin dạy cách cứu mẹ. Đức Phật cho biết là bà Thanh Đề
sinh thời đã tạo nhiều ác nghiệp nặng nề nên một mình phép thần thông không cứu
được, chỉ có thần lực mười phương Tăng đồng tâm hiệp lực cầu nguyện mới cứu
giúp được cho bà qua khổ nạn.
Đức Phật dạy thêm Mục Kiền Liên phải tổ chức cúng dường các Tăng Ni nhân
ngày an cư kiết hạ vào ngày rằm tháng Bảy. Theo Pháp Phật, trước khi thọ thực,
chư Tăng Ni sẽ nhất tâm cầu nguyện, hồi hướng phước lành cho cha mẹ hiện tiền
của thí chủ được tăng phước, tăng thọ.
Theo kinh Vu Lan bồn, Mục Kiền Liên đã thực hiện lời dạy của Đức Phật,
thỉnh chư Tăng cúng dường, nương nhờ tâm thanh tịnh, sau 3 tháng an cư chú
nguyện mà bà Thanh Đề đã chuyển hoá tâm thức, xoá bỏ lòng tham, thoát khỏi kiếp
quỷ đói sanh về cảnh giới an lành.
Quan điểm chung của mọi tôn giáo kể cả Phật giáo đều cho rằng hương linh
của người chết đoạ vào kiếp ngạ quỷ, họ sống, họ ăn bằng cái tưởng và do tâm
tưởng mà họ no, vì vậy thể xác của họ nhẹ nhàng như bóng như gió và khi được
chuyển tâm tưởng thì liền đó thoát khổ. Do đó khi chư Tăng Ni nguyện lành cho
bà, bà chuyển được tâm niệm nên sinh vào cõi tốt đẹp hơn.
"Vu Lan bồn" là từ ngữ
phiên dịch từ chữ Phạn Allambhana, dịch theo ngôn ngữ Trung Hoa là "Giải
đảo huyền" có nghĩa là cứu "nạn treo ngược", mô tả hình phạt
treo ngược, hình dung một quả báo chịu sự hành hạ đối với người đã gây tội ác phải
thọ lãnh ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Cực hình treo ngược còn
có hàm ý thể hiện tâm lý phiền não, tham lam, sân hận, si mê đã cột chặt chúng
sanh vào vòng sinh tử luân hồi cần được giải cứu.
Như vậy, ngay từ khởi thuỷ lễ Vu Lan là một đại lễ Báo hiếu, Báo ân sâu
dày của cha mẹ. Lễ Vu Lan đã thăng hoa thành một lễ hội văn hoá lớn với ý nghĩa
sâu đậm là "uống nước nhờ nguồn" nhớ ơn và đền đáp công ơn dưỡng dục
sinh thành của cha mẹ dù còn hiện hữu trong đời hay là hương linh đã quá vãng.
Đối với đất nước ta đã trải qua khổ nạn chiến tranh triền miên được mô
tả bằng hình ảnh ghê gợn "xương
chất thành núi, máu chảy thành sông". Ngày nay lễ Vu Lan còn có thêm một ý
nghĩa là đại lễ cầu nguyện cho các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn chiến tranh
được vãng sanh nơi cực lạc.
· Cõi giới siêu
hình
Định lý Toán học Godel nổi tiếng gây nhiều ảnh hưởng sâu rộng đến các
phương pháp tư duy duy lý. Có thể hiểu là: Nền tảng của bất cứ lý thuyết nào mà
con người xây dựng nên, đều phản ảnh một tình huống nhất định của nhận thức. Từ
bên trong một tình huống không thể hiểu hết mọi chuyện của tình huống đó, chỉ
khi nào đứng ngoài tình huống đó thì may ra mới đạt tới một viễn cảnh sâu xa
hơn để có thể nhìn thấu bên trong nó, vì vậy ta không thể hy vọng đứng bên
trong thế giới duy lý mà thấu hiểu hết mọi thứ. Nói cách khác, đã đến lúc mà tư
duy cơ giới với tất định luận, với những phương pháp phân tích, suy luận duy lý
và qui giản đã không còn phù hợp, mà còn phải bổ sung những quan điểm tư duy
mới, vận dụng thêm những năng lực cảm thọ khác trên cơ sở quan điểm mới để tìm
hiểu các đối tượng nhận thức của mình, nhằm mục đích nhận thức chứ không nhất
thiết phát hiện nên các chân lý khách quan mà trung tâm là tìm được các cách
thức giải quyết vấn đề mà con người gặp phải trong cuộc sống bình thường của
mình.
Đức Phật lúc còn tại thế rất ít khi Ngài bàn
đến các vấn đề siêu hình. Tất cả các giáo pháp của Ngài đều mang màu sắc thực
dụng. Những hệ thống triết lý như hệ thống pháp tánh, hệ thống duy thức đôi khi
mang màu sắc siêu hình nhưng hoàn toàn không phải là hệ thống lý luận siêu hình
mà chính là hệ thống tâm lý siêu hình
bắt nguồn từ nhận thức tâm lý đã thâm nhập sâu vào thực nghiệm tâm linh và thực
chứng bản thể. Hệ thống triết học như thế không phải được dàn dựng có mục đích
giải đáp các thắc mắc siêu hình mà đó là những "ngón tay chỉ trăng", đó là "ảnh tượng chân lý" để nương tựa vào, để đạt đến chân lý.
Chính đức Phật cũng nói rất nhiều về các cõi giới siêu hình như chúng
sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, thần Atula, Chư Thiên.v.v. Các chúng sinh đó có hình
hài mà các hình hài đó đối với chúng ta là siêu hình. Một hình hài mà siêu hình
nên được gọi là linh hồn hay thần thức hay thân Dị thục theo Phật
giáo
Quan niệm chung của các dân tộc trên thế giới thì linh hồn là một cấu
thể có hình dáng tựa như thân xác nhưng thuộc siêu hình, có thể tánh nhẹ, có thể bay, có thể biết được ý nghĩ của con
người, có thể nhìn thấy con người nhưng không bị con người nhìn thấy. Khi con
người còn sống bình thường thì linh hồn gắn với thể xác và sẽ tách khỏi thể xác
khi chết đi hay khi nhập vào thiền xuất hồn (Du Hí Tam Muội). Linh hồn vẫn tồn
tại, sau khi chết tồn tại từ cõi sắc trở xuống. Linh hồn có hình dáng, có cảm
thọ để chịu đau khổ ở địa ngục hay hưởng hạnh phúc ở cõi trời, không chịu ảnh
hưởng vật chất trần gian, có hành ấm để cho bản ngã hoạt động, có thức ấm vi
diệu. Thần thức còn gọi là thân Dị thục hay Báo thân bao gồm chủng tử, tập khí
và nghiệp của mỗi con người, đó là nói đến thế giới tâm lý hơn là sinh lý. Khi
sắc thân tức cơ thể bằng xương bằng thịt qua đời thì thân Dị thục sẽ tái sinh.
Đó chính là động lực của tâm lý nghiệp thức thúc đẩy tìm kiếm một sanh thân mới
khi con người qua đời. Thân Dị thục này cũng vô thường nên nó là vô ngã. Thân
Dị thục sẽ thực sự chấm dứt vĩnh viễn khi hành giả tạo được một sự chuyển y
trong cơ cấu nội tại của tàng thức, nghĩa là bước sang thế giới của Niết bàn.
Quan điểm tái sinh theo Phật giáo có mấy điểm quan trọng
a/ Người ta không chỉ tái sinh
trong loài người, mà có thể tái sinh trong vô số trạng thái hiện hữu khác, đa
số là vô hình đối với chúng ta.
b/ Không có gì chắc chắn là người sẽ tái sinh làm người, trừ khi đó là
người đó có đạo đức cao và ngược lại điều đó thì sẽ tái sinh trong cõi thấp,
chịu đau khổ hơn và ở lại đó trong nhiều kiếp trước khi tái sinh lại trong cõi
người.
c/ Vòng sinh tử luân hồi của con người đã có từ vô thuỷ.
d/ Giữa 2 kiếp sống trước và sau, con người ở trong trạng thái trung
gian (trung ấm) một thời gian cho đến khi đủ duyên sẽ chuyển thân vào thai mới,
lúc đó linh hồn cũ tan rã vì sự sống tiếp sau vừa hình thành trong thai nhi mới
(không nhất thiết của con người).
Đối với những người có tinh thần mạnh mẽ ưu tư các vấn đề đại sự thì
linh hồn có nhiều năng lực mạnh mẽ, có thể tác động đến tinh thần người sống và
có thể tồn tại lâu trong thế giới siêu hình, họ có thể hiện khởi thành hình hài
trong chốc lát trước mắt ai đó có duyên.
Trong các kinh Phật như kinh Thủ Lăng Nghiêm kính Pháp Hoa, Đức Phật có
nói đến những người tạo nghiệp quá nặng phải đoạ vào Địa ngục để chịu trừng
phạt, người tạo phước đức sâu dày thần thức sẽ lên cõi trời yên vui.
Đạo Phật quan niệm không phải
Tàng thức đã đem khuynh hướng từ đời này sang đời sau mà ở đây chỉ có nhân quả
nghiệp báo làm nền tảng xây đắp cho đời sau.
*
* *
Theo các nhà vật lý thiên văn vũ trụ thông báo về tổng vật chất và năng
lượng vũ trụ có thể phân loại như sau:
+ Có 4% vật chất thông thường là loại vật chất tạo nên chúng ta và bao
quanh chúng ta (thực vật, động vật .v.v.)
+ Có 22% vật chất ngoại lai là vật chất không được cấu tạo từ neutron và
proton. Người ta cho rằng nó được cấu tạo bởi các hạt cơ bản nặng sinh ra trong
những phần giây đầu tiên sau vụ nỗ lớn (Big Bang) tạo nên vũ trụ.
Như vậy 74% vật chất còn lại ở đâu. Các nhà khoa học đành gọi là
"năng lượng tối" và họ chưa nói gì về bản chất của nó, nhưng chính nó
là thủ phạm gây ra sự dãn nở của vũ trụ diễn ra càng ngày càng nhanh, cũng như
các thiên hà rời xa nhanh hơn.
Và các nhà khoa học cho rằng phải tồn tại một loại vật "chất vô
hình" rất lớn trong vũ trụ.
Hơn nữa, theo thống kê của thế giới về dân số cho biết, từ khi con người
có mặt trên địa cầu cho đến nay có khoảng 70 tỷ người đã qua đời, nghĩa là gấp
10 lần dân số hiện nay. Phải chăng có một sự tương thích giữa lý thuyết khoa
học về vũ trụ và lý thuyết về các cõi giới siêu hình của tôn giáo như "cõi Trời, cõi Địa ngục" và có thể
một ngày nào đó, khoa học mở rộng phạm vi môi trường sống sang thế giới vô hình
cũng là một dạng tồn tại, nơi đến sau cái chết trong cuộc đời này của con
người.
· Văn tế thập
loại chúng sinh
Dân gian còn gọi một tên khác "Chiêu hồn ca" , một tác phẩm
viết bằng chữ Nôm theo thể song thất lục bát gồm 184 câu và không biết chắc
chắn được cụ Nguyễn Du sáng tác vào những năm nào. Áng văn mang tính văn chương
bình dân sâu sắc được mở đầu bằng một không gian mùa thu. Mùa thu trong áng văn
không kiều diễm lãng mạn với tơ trời lung linh, mang theo bụi thu mờ, không có
lá thu rụng vàng tơi tả, đã thêu dệt thấm đẫm cho những cuộc tình hò hẹn hay ly
biệt. Trái lại mùa thu ở đây thật cô quạnh,
hiu hắt có mưa dầm và sương lạnh. Đêm về thì trời đất u tịch, âm hưởng trầm
buồn vang vọng tiếng trùng nỉ non, hoà điệu cùng với khúc bi ai của những oan
hồn cô độc sống kiếp lưu linh đày đoạ, vất vưởng lưng chừng giữa cái chết và
cái sống trong tiếng than ai oán và uất hận.
"Tiết
tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Lọt hơi sương
lạnh buốt xương khô
Não người thay
bấy chiều thu
Ngàn lau khảm
bạt, giếng ngô rụng vàng
Đường bạch
dương bóng chiều man mát
Ngọn đường đê
lát đát mưa sa.
Lòng nào lòng
chẳng thiết tha
Cõi dương còn
thế nữa là cõi âm".
Áng văn được khép lại bằng tâm niệm nương nhờ nơi oai lực thanh tịnh của
Tam Bảo, nương tựa nơi hùng lực Tâm Đại bi của đức Phật để được siêu độ thoát
khổ.
"Nam mô
Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam mô nhất
thiết siêu thăng thượng đài".
Không tránh khỏi bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, xã hội đã trải qua bao
nhiêu loạn lạc, tranh quyền đoạt lợi, gây bao nhiêu đau thương tan tóc suốt
thời kỳ Lê mạt, Trịnh - Nguyễn phân tranh, Tây Sơn quật khởi cho đến thời kỳ
Nguyễn sơ, đã ảnh hưởng đến tâm hồn sáng tác của cụ Nguyễn Du trong Văn Tế Thập
loại chứng sinh. Nhưng bối cảnh đó chỉ là những điểm nhấp nhô trên một lát cắt
thời gian. Toàn cảnh của áng văn đầy uy lực được ông mô tả về thân phận khác
nhau của người đời và đời người trong nỗi nghiệp riêng. Dù sang hèn, nhà cao
cửa rộng, áo mũ cân đai, đầu rừng cuối sông, bãi bể nương dâu đều phải chịu chi
phối bởi tang thương, trắc trở đổi thay, đều bị trói chặt bằng dây nghiệp lực
vào thế giới oan khiên chập chùng, hay bị vây hãm kiếp nhân sinh trong vòng
khốn đốn, lầm than, khổ não.
"Kiếp phù
sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng vạn
cảnh giai không"
(Nguyễn Du -
Văn tế)
Sự bi ai thống thiết của lời văn
trong "Chiêu hồn ca" mang đậm nội dung thâm áo của Phật pháp nhằm
khai mở trí tuệ, phát lộ tâm từ tâm bi, diễn bày nỗi u uất, thống hận, khổ ải
mà cô hồn, ngạ quỉ, gánh chịu vì nghiệp chướng của họ, đồng thời giải bày tính
hư huyển, giả tạm của cuộc thế nhân gian, làm rung động, cảm hoá đến tâm thức
người đang sống nhằm thức tĩnh tâm hồn mãi còn rong ruỗi chốn u mê và nhận ra
rằng những hành vi bất thiện có cội nguồn từ tham lam, sân hận, cuồng si trong
đời này chỉ dẫn đến khổ luỵ cho mình không những trong thời khắc hiện sinh mà
còn cho cả kiếp sau.
Rốt cuộc, người ta tự vấn: mục đích muôn thuở của nhân sinh là gì? Giấc
mộng công hầu khanh tướng, tranh hùng tranh bá, xưng vương, xưng tướng, dành
giật quyền cao chức trọng, cho đến kẻ bôn chen tất bật, bồn tro đãi sạn, sớm ở
đầu truông tối ở cuối gành, mộng đã không thành đến khi chôn vùi thân xác nơi
cõi thiên thu. Giang sơn như hoạ thì còn đó, mà người còn đâu. Biết bao giờ nỗi
oan khiên uất hận mới kết thành ngọc bích long lanh và bao giờ mới trực ngộ:
"Nhờ pháp
Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mơ
khai tỉnh chiêm bao"
(Nguyễn Du -
Văn tế)
Nhưng vẫn còn có duyên lành hé mở cho chúng sinh chốn trần
"Nhờ pháp
Phật siêu sinh tỉnh thổ
Bóng hào quang
cứu khổ độ u
Rắp hoà tứ hải
quần chu
Não phiền trút
sạch, oán thù rửa không
(Nguyễn Du -
Văn tế)
*
* *
Đại lễ Vu Lan và Văn tế Thập loại chúng sinh có phần giao cảm sâu sắc,
phản ánh nhập thế của Phật giáo Việt Nam - hoà điệu của ba truyền thống Mật,
Tịnh độ và Thiền tông như lời dạy của Đức Phật: tất cả các biển chỉ có một vị mặn của nước. Hơn thế nữa, Phật giáo
Việt Nam còn thể hiện tinh thần "khế
lý, khế cơ" của giáo pháp với truyền thống dân tộc bằng một liên hệ
hữu cơ và tự nhiên, trở thành nếp sống đạo đức hướng thượng của người Việt Nam
từ ngàn xưa. Quan điểm về hiếu hạnh của đạo Phật không dừng lại trên lý lẽ
thuần tuý mà phải thể nhập bằng thái độ sống, kết nối sự yêu thương, hướng đến
sự bình an nội tại, nhận chân được hạnh phúc nhân gian.
Nguyên lý Duyên khởi của nhà Phật là nền tảng, là cội nguồn của đạo lý
hiện thực. Tri ân và biết ân là đức hạnh sâu dày để an trú trong thế giới an
lạc hạnh phúc. Phật dạy "Ai thấy
Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp sẽ chứng ngộ Niết bàn".
Công hạnh dâng hương, dâng hoa, đốt trầm để khói hương trầm nghi ngút
loan toả đến mười phương Phật, Bồ Tát. Gắp trầu xanh, đĩa cau chín mọng dâng
hiến Thánh thần cõi trên, chiếu rọi khắp Thiên đàng, Địa giới. Bát chè, dĩa
xôi, cáo bạch ông bà, tổ tiên để minh chứng tấm lòng hiếu hạnh kẻ trần gian.
Đây thật sự là tố chất của giá trị tâm linh được mỗi con người trải nghiệm
nghiêm chỉnh trong suốt quá trình của dòng sống vận hành với đầy rẫy những biến
động mà ta phải đối diện.
Đặng Công Hanh
Theo nguồn: Hoangphap.info
Không có nhận xét nào