Nhân ngày vía Đức Phật Di Đà nói về sự tích của Ngài
Đức Phật A Di Đà là một
ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn,
mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
Ngày nào được coi là vía đức Phật A Di Đà?
Trong cuốn Phật học Phổ thông của cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa hay Kinh sách của Tịnh Độ tông không ghi rõ ngày đản sinh, xuất gia thành đạo của Phật A Di Đà. Tuy nhiên, Thiền sư Vĩnh Minh Thọ được xem như là hóa thân của đức Phật A Di Đà nên mọi người chọn ngày sinh của Thiền sư là ngày 17 tháng 11 Âm lịch hàng năm cử hành lễ Vía, nhớ lại Đức Phật A Di Đà.
Trong cuốn Phật học Phổ thông của cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa hay Kinh sách của Tịnh Độ tông không ghi rõ ngày đản sinh, xuất gia thành đạo của Phật A Di Đà. Tuy nhiên, Thiền sư Vĩnh Minh Thọ được xem như là hóa thân của đức Phật A Di Đà nên mọi người chọn ngày sinh của Thiền sư là ngày 17 tháng 11 Âm lịch hàng năm cử hành lễ Vía, nhớ lại Đức Phật A Di Đà.
Đại lễ Vía đức Phật A Di Đà ở chùa Hoằng Pháp (TP.HCM) |
Theo sách “Đường về cực Lạc”, đức Phật
A Di Đà sinh vào đời Tống, người Tiền Đường, họ Vương tự Xung Huyền.
Thuở thiếu niên thường trì tụng Kinh Pháp Hoa, cảm bầy dê quì mọp nghe
Kinh. Trưởng thành làm quan coi về thuế vụ,
nhiều lần lấy tiền công đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng sinh. Bị phát giác
hình quan thẩm định án tử. Khi áp giải ra pháp trường sắc mặt vẫn bình
thản, vì tin rằng do công đức phóng sinh hồi hướng sẽ được sinh Tịnh độ.
Nhà vua cảm động tha bổng.
Ngài xin xuất gia, đến Tứ Minh thọ
pháp với Tuý Nham Thiền sư. Ngài tụng Pháp Hoa Sám, thấy Bồ Tát Quan Thế
Âm tưới nước cam lồ vào miệng, được biện tài vô ngại. Mặc dù, Ngài tu Thiền nhưng rất mến mộ
Tịnh, một hôm đến thiền viện của Trí Giả đại sư làm hai lá thăm: Một đề
“nhất tâm thiền định”, một đề “Trang nghiêm Tịnh độ”. Sau 7 lần rút
thăm đều rút nhằm lá thăm “Trang nghiêm Tịnh độ”. Từ đó Ngài tận lực tu
niệm hoằng hoá pháp môn Tịnh độ.
Về sau Ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh,
tôn hiệu Trí giác Thiền sư, Ngài trụ ở đây 15 năm, độ được 1700 vị tăng
và cư sĩ qui hướng Tịnh độ rất nhiều. Ngài trứ tác tập “Vạn Thiện đồng
quy”, chủ ý khuyến tu các pháp lành qui hướng về Tịnh độ.
Lịch sử đức Phật A Di Đà như thế nào?
Theo kinh Bi Hoa, thuở xa xưa vào một
đại kiếp gọi là Thiện Trì, cõi nước Tản đề Lam, có một vị Chuyển luân
Thánh Vương là Vô Tránh Niệm, thống trị bốn châu thiên hạ: Một là Đông
Thắng Thần Châu, hai là Nam Thiện Bộ Châu, ba là Tây Ngưu hoá Châu, bốn
là Bắc câu lô Châu. Vua Vô Tránh Niệm có 32 tướng tốt như
Phật, dùng pháp hiền thiện minh triết giáo hoá thống trị quốc dân. Người
hành Thập thiện được khen thưởng quí trọng, người hành Thập ác bị trừng
phạt bằng tiếng sét như sấm trời, loại người ấy ra khỏi cộng đồng sự
sống.
Đến khi nhiều người sống thập ác, Vua
Vô Tránh Niệm và triều thần quyến thuộc không xuất hiện nữa, vì ngài
không nỡ diệt hết bọn xấu, để cho quy luật nhân quả đủ cơ duyên vận hành
dạy cho chúng kinh nghiệm.
Đức Phật A Di Đà |
Theo luận Câu Xá, quyển 12, thời Vua
Vô Tránh Niệm xuất hiện tuổi thọ nhân loại cao đến tám vạn tuổi, môi
trường sinh thái tinh khiết, đất đai mầu mỡ, cây cỏ xinh tươi, vật chất
sung mãn. Trong triều đình của Vua Vô Tránh Niệm
có quan đại thần Bảo Hải, dòng Phạm Chí rất tinh thông Thiên văn học,
mến mộ Phật giáo (Bảo Hải là tiền thân Phật Thích Ca) ông có người con
trai tướng hảo thông tuệ, khi mới đản sinh được các nhà tôn quí kính
tặng nhiều châu báu nên đặt tên là Bảo Tạng.
Bảo Tạng nhận thấy thân tâm thế giới
vô thường khổ, nên xin với cha mẹ xuất gia tu Phật. Tu tập tinh chuyên
không bao lâu sau tu sĩ Bảo Tạng chứng quả vô thượng chánh đẳng giác
thành Phật hiệu Bảo Tạng Như Lai.
Danh thơm tiếng tốt của Phật Bảo Tạng
đến tai Vua Vô Tránh Niệm, Vua cũng thỉnh Phật và chư tăng vào vương
cung cúng dường trong ba tháng hạ chu đáo. Lúc bấy giờ quan đại thần Bảo Hải, sau
khi nghe pháp chứng thánh quả Tu đà hoàn trở thành cư sĩ Bồ Tát, nhân
một buổi thiết triều bàn luận quốc sự xong, tâu với vua Vô Tránh Niệm:
“Bệ hạ cúng dường cầu quả phúc nhân thiên mỹ mãn cũng chỉ ở trong tướng
vô thường biến đổi như gió thoảng mây tan.
Do túc nghiệp tu phúc huệ hữu lậu đời
trước nay được quả vị tôn quí không ai sánh kịp, thuận tiện giúp đời
khôn sáng, cơm no, áo ấm; nhưng chiều sâu tâm lý bệ hạ và thần dân vẫn
bất an vì sanh lão bịnh tử khổ. Chi bằng phát tâm bồ đề, hành Bồ tát đạo
Kiến tạo nước Phật thì hạnh phúc cho toàn dân biết mấy".
Vua Vô Tránh Niệm nghe qua đẹp ý, thu
xếp việc triều chính, đến vườn Diêm phù đàn cúng dường Phật tăng thính
pháp. Đến nơi thấy Bảo Tạng Như Lai nhập định phóng quang sáng suốt, soi
rõ mười phương thế giới Tịnh Độ của chư Phật cho chúng hội chiêm bái.
Đồng thời, Vua Vô Tránh Niệm cũng nhập
chúng, xét thấy nhân dân của mình sắc thân không ngời sáng như dân
Phật, trí tuệ cũng kém hơn, quốc độ đền đài cung điện thô thiển bằng cây
đá chạm trổ. Trong khi đó cung điện xứ Phật làm
bằng bảy báu lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách…Đặc biệt
không có cõi Phật nào có dân nghèo khó, bệnh viện, nghĩa địa.
Chiều đến quan đại thần Bảo Hải từ tạ
Vua về dinh thự riêng, Vua Vô Tránh Niệm hồi cung suốt đêm không ngủ hồi
tưởng tư duy, suy xét rút tinh tuý các nước Phật làm thành đại nguyện
xây dựng nước Phật cho mình. Sáng sớm Vua đến lễ bái Phật Bảo Tạng xin
chứng minh đại nguyện Bồ đề, dù trăm ngàn kiếp khổ khó thực hiện quyết
không thối chí. Ngài phát 48 lời đại nguyện.
Ðức Phật A Di Ðà, kiếp trước là con
của Đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh
Pháp Hoa cho chúng sinh nghe nên thành Phật hiệu là A Di Ðà, ở cõi Tây
phương Cực lạc.
Muốn cho chúng sanh cõi này vượt khỏi
kiếp lầm than của những cái khổ của sinh, lão, bệnh, tử nên Đức Phật
Thích Ca nói rõ nhân địa hạnh nguyện của Phật A Di Ðà. Đồng thời, khai
thị pháp môn Tịnh độ tu hành rất dễ dàng. Từ thượng lưu trí thức đến
hạng dân thường, nếu ai chuyên tu, cũng đều được vãng sinh cả.
(*) Bài viết có sử dụng tài liệu của cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa, cư sĩ Huệ Minh.
Theo: Kiến thức
Con thấy sự kết hợp Thiền Tịnh song tu là tuyệt vời. Để noi theo Chùa Hoằng pháp Qúy chùa nên tổ chức ngày vía Phật A Di Đà để Phật tử có cơ duyên về tu học và hành trì niệm Phật gieo duyên.
Trả lờiXóa