Các tôn hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Như
Lai cũng là tôn hiệu thường dùng nhất để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
“Như Lai” được dịch từ chữ “Tathagata” trong tiếng Phạn.
Tác giả: Lê Gia Hân/Nguồn: www.btgcp.gov.vn
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là
người sáng lập ra đạo Phật, một trong những tôn giáo có tầm ảnh hưởng
lớn nhất trên thế giới trong lịch sử cũng như hiện nay. Đức Phật Tổ có
nhiều tôn hiệu khác nhau. Tất cả những tôn hiệu này đều xuất hiện sau
khi Ngài tu hành đắc đạo và thuyết pháp độ chúng.
Thích Ca Mâu Ni: “Thích Ca Mâu Ni” là dịch từ chữ “Sakyamuni” trong tiếng Phạn. Chữ “Sakya”, dịch thành chữ “Thích Ca”, là tên gọi của một bộ tộc ở Ấn Độ cổ đại. Chữ “Muni”, dịch thành chữ “Mâu Ni”, nghĩa là giàu lòng nhân từ (Năng Nhân), rất giỏi chịu đựng (Năng Nhẫn), biết cách nhường nhịn (Năng Nhu), biết cách giữ gìn cho thân tâm thanh tịnh (Năng Tịnh). Nói tóm lại, “Thích Ca Mâu Ni” nghĩa là vị thánh của dòng họ/bộ tộc Thích Ca. Danh hiệu này để tôn xưng tên thật của Ngài là Cồ Đàm Tất Đạt Đa.
Thích Ca Mâu Ni: “Thích Ca Mâu Ni” là dịch từ chữ “Sakyamuni” trong tiếng Phạn. Chữ “Sakya”, dịch thành chữ “Thích Ca”, là tên gọi của một bộ tộc ở Ấn Độ cổ đại. Chữ “Muni”, dịch thành chữ “Mâu Ni”, nghĩa là giàu lòng nhân từ (Năng Nhân), rất giỏi chịu đựng (Năng Nhẫn), biết cách nhường nhịn (Năng Nhu), biết cách giữ gìn cho thân tâm thanh tịnh (Năng Tịnh). Nói tóm lại, “Thích Ca Mâu Ni” nghĩa là vị thánh của dòng họ/bộ tộc Thích Ca. Danh hiệu này để tôn xưng tên thật của Ngài là Cồ Đàm Tất Đạt Đa.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn được gọi
bằng các tên “Phật Đà” hay “Phù Đồ”, nói tắt là “Phật” hay “Bụt”, dịch
từ chữ “Buddha” trong tiếng Phạn, nghĩa là “Giác” (giác ngộ), “Người
Giác” (người đã giác ngộ), “Người Trí” (người tinh thông mọi đạo lý).
Chữ “Giác” có 3 nghĩa: một là “Tự giác” (tự giác ngộ cho bản thân mình);
hai là “Giác tha” (giúp cho chúng sinh giác ngộ); ba là “Giác hạnh viên
mãn” (tu hành viên mãn hết mức và trở thành Phật), ngôi vị cao nhất
trong tu hành Phật giáo. Theo giáo pháp nhà Phật, chỉ có Phật (người
giác) mới có đầy đủ ba bậc, tức là ở bậc cao nhất. Các vị Bồ Tát còn
thiếu một bậc (hay thấp hơn một bậc). Các vị La Hán còn thiếu hai bậc
(hay thấp hơn hai bậc). Phàm phu tục tử còn thiếu cả ba bậc (hay ở bậc
thấp nhất).
Thế Tôn: “Thế Tôn” là
một tôn hiệu khác rất hay được dùng để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
“Thế Tôn” vốn là cái tên mà đạo Bà La Môn dùng để gọi những vị trưởng
giả. Tăng sĩ và tín đồ Phật giáo sau này cũng dùng cái tên đó để tỏ lòng
cung kính Thích Ca Mâu Ni. Phật giáo coi Thích Ca Mâu Ni là người đức
hạnh vẹn toàn, công đức đầy đủ, có thể làm lợi cho thế gian, muôn loài
đều tôn kính, cho nên gọi là “Thế Tôn”.
Như Lai: cùng với
“Thế Tôn”, “Như Lai” cũng là tôn hiệu thường dùng nhất để chỉ Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. “Như Lai” được dịch từ chữ “Tathagata” trong tiếng
Phạn. “Như” , còn gọi là “Như Thực” hay “Chân Như”, là để chỉ cái “chân
lý tuyệt đối”, “chân tướng của sự thật”, “bản thể của vũ trụ vạn hữu”.
“Lai” nghĩa là đến. “Như Lai” là những người đến bằng con đường chân
thực, những người đã hiểu rõ chân lý, những người đi theo con đường đúng
đắn đến được chính giác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong số những
người đến bằng cách như vậy nên được gọi là “Như Lai”.
Từ “Như Lai” dùng với nghĩa hẹp để chỉ
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, với nghĩa rộng để chỉ tất cả các vị Phật, như
A Di Đà Như Lai, Dược Sư Như Lai,v.v…
Ứng Cúng: Đức Phật là
người đã đoạn trừ Nghiệp, Hoặc, vĩnh viễn thoát khỏi vòng luân hồi sinh
tử, muôn đức tôn nghiêm, phúc tuệ đầy đủ, nên xứng đáng với sự cúng
dường của chư Thiên và loài Người.
Chính Biến Tri: Chính
là chân chính. Biến là khắp nơi, rộng lớn. Tri là hiểu biết. “Chính
Biến Tri” là người hiểu biết đúng đắn, hiểu biết tất cả bao trùm khắp
thế gian.
Minh Hạnh Túc: Đức
Phật là người có đầy đủ phúc tuệ, nghĩa có đầy đủ tam minh (Túc Mạng
Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh,
Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh) nên được gọi là Minh Hạnh Túc.
Thiện Thệ: Thiện là
tốt, khéo léo. Thệ là đi, vượt qua. Đức Phật là người tu tập theo con
đường chân chính, biết khéo léo vượt qua tất cả để nhập Niết Bàn.
Thế Gian Giải: Đức Phật là người thấu hiểu tất cả các pháp của thế gian.
Vô Thượng Sĩ: Trong
tất cả các pháp thì Niết Bàn là Vô Thượng, trong loài người thì Đức Phật
là Vô Thượng, trong các thành quả thì Chính Giác là Vô Thượng. Chúng
sinh trong chín cõi đều không so sánh được với Đức Phật, nên Ngài có tôn
hiệu là Vô Thượng Sĩ, nghĩa là người đã lên đến cao vô thượng.
Điều Ngự Trượng Phu:
Đức Phật là Đấng đại trượng phu có khả năng điều phục, chế ngự mọi ma
chướng trong khi tu hành chính đạo. Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa
khác nữa là Đức Phật có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục
những kẻ ác theo về chính đạo.
Thiên Nhân Sư: Đức Phật là bậc Đạo sư, là người thầy đưa đường dẫn lối đến giải thoát cho cả chư Thiên lẫn loài Người.
Từ Phụ: Đức Phật
thương tất cả chúng sinh như cha mẹ nhân từ thương con cái. Tình thương
này bình đẳng, an nhiên vô ngại, nghĩa là không phân biệt sự kính trọng
hay sự phỉ báng của chúng sinh đối với Đức Phật, không phân biệt người
sang hay người hèn. Chúng sinh càng lầm lạc thì lòng từ bi của Đức Phật
càng vô lượng vô biên.
Chân Thật Ngữ: Đức
Phật là đấng nói những lời chân thật, không phỉnh gạt chúng sinh. Những
lời nói của Đức Phật đều xuất phát từ trí tuệ toàn hảo, không phải tùy
tiện.
Lưỡng Túc Tôn: Lưỡng
Túc Tôn có hai nghĩa: Đức Phật là đấng tôn quý nhất trong những loài hai
chân (lưỡng túc: hai chân), như chư Thiên và loài Người. Và, đức Phật
là đấng đầy đủ Phúc đức và Trí tuệ (lưỡng túc: cả hai đều đầy đủ).
Tỳ Nô Giá Na: Phật
giáo Mật tông gọi đức Phật Thích Ca Mâu Ni là “Tỳ Nô Giá Na”, dịch ý
nghĩa là “Đại Nhật Như Lai”. Theo tiếng Phạn, “Tỳ Nô Giá Na” là tên gọi
khác của Mặt Trời. Dùng danh hiệu “Tỳ Nô Giá Na” có nghĩa coi Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni là Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của Đức
Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
Ngoài ra, Đức Phật còn được biết với
một số tôn hiệu khác như: Bạc Già Phạm, nghĩa là người đã chiến thắng sự
chế ngự của bản ngã; Tam Giới Tôn, nghĩa là người đã giác ngộ, đã giải
thoát khỏi tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới; Toàn Giác,
nghĩa là người đã giác ngộ hoàn toàn; Đạo Sư, nghĩa là người thầy dẫn
chúng sinh đến sự giải thoát, v.v…
Tác giả: Lê Gia Hân/Nguồn: www.btgcp.gov.vn
Không có nhận xét nào